Kính Dâng lên hương hồn những Kỵ Binh thuộc Chi Đoàn 2/19 Thiết Kỵ
đã anh dũng đền nợ nước tại Mặt Trận Khánh Dương.
đã anh dũng đền nợ nước tại Mặt Trận Khánh Dương.
Bài viết nầy để phản bác lại những tin tức, những nhận định sai lạc của Đại Úy Võ Trung Tín thuộc Lữ Đoàn 3 ND trong bài “Mặt trận Khánh Dương: 19 tháng Ba đến 2 tháng Tư, 75” đăng trên báo Người Việt và nguoivietonline. Và cũng để trả lại danh dự cho những Kỵ Binh đã bị sát hại bởi những người lính thuộc Lữ Đoàn 3 ND tại mặt trận Khánh Dương.
[Trích Dẫn]
Mặt trận Khánh Dương: 19 tháng Ba đến 2 tháng Tư, 75
Lực lượng địch:
– SÐ F10 chủ lực tấn công BMT.
– SÐ320 đã bị thiệt hại nặng khi đụng độ với nhảy dù ở Thượng Ðức.
– SÐ316 CSBV từ Nam Lào tiến sang.
– 5 trung đoàn pháo binh gồm 48 khẩu pháo đủ loại và phòng không.
– 1 trung đoàn chiến xa, một trung đoàn đặc công.
– 2 trung đoàn công binh, một trung đoàn thông tin.
Lực lượng bạn:
– Trung Ðoàn 40/SÐ22 Bộ Binh do Ðại Tá Thiều làm trung đoàn trưởng.
– Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù, LÐT là Trung Tá Lê Văn Phát gồm:
- Tiểu Ðoàn 2 Nhảy Dù, TÐT Thiếu Tá Trần Công Hạnh.
- Tiểu Ðoàn 5 Nhảy Dù, TÐT Trung Tá Bùi Quyền.
- Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù, TÐT Trung Tá Nguyễn Văn Thành.
- Tiểu Ðoàn 3 Pháo Binh Nhảy Dù, TÐT là Thiếu Tá Nguyễn Văn Triệu.
- Ðại Ðội 3 Trinh Sát Nhảy Dù, ÐÐT là Ðại Úy Nguyễn Viết Hoạch.
– 1 chi đoàn M113.
Diễn tiến:
Ngày 29 Tháng Ba 1975 vào lúc 3 giờ sáng, pháo binh cộng sản đủ loại dập lên tuyến phòng thủ của Tiểu Ðoàn 5 và 6 Nhảy Dù sau đó cộng quân tập trung toàn lực lượng biển người với các Sư Ðoàn 316, 320 và F10 quyết dứt điểm LÐ3ND từ 3 phía. LÐT/LÐ3ND ra lệnh cho các đơn vị trực thuộc lập “phòng tuyến thép” không lui. Cho đến 21 giờ đêm 4 chiếc Thiết Vận Xa M113 tự ý rời khỏi vị trí được chỉ định liền bị bắn cháy ngay tức khắc. Ðó là kỷ luật thép của “Ðoàn Quân Mũ Ðỏ” khi lâm chiến.
TÐ5ND do Trung Tá Bùi Quyền TÐT và Thiếu Tá Võ Trọng Em làm TÐP bị Trung Ðoàn 28 CSBV vây hãm và tràn ngập. Thiếu Tá Võ Trọng Em đã hướng dẫn được khoảng 200 chiến sĩ lui vào rừng, vượt núi xuyên rừng về Nam, 5 ngày sau toán quân này mới được trực thăng giải cứu bốc về Phan Rang, một số quân ND khác tháp tùng Thiết Ðoàn M113 về được Dục Mỹ.
Đại Úy Võ Trung Tín
[Hết Trích Dẫn]
Chưa bàn đến nội dung với một bố cục đầu cua tai nheo, dây cà ra dây muống của bài viết mà chỉ bàn đến phần in đậm trong phần trích dẫn đã thấy lòng kiêu hãnh (dỏm) của một chiến binh Nhảy Dù (ND). Ai cũng biết binh chủng Nhảy Dù là lực lượng tổng trừ bị của QLVNCH, một trong những đơn vị Bộ Binh (BB) thiện chiến nhất của QLVNCH. Nhưng không phải vì niềm tự hào lòng kiêu hãnh mà có những lời nói, những bài viết xúc phạm đến danh dự của một binh chủng bạn. Nhất là những Kỵ Binh đã đền xong nợ nước trong mặt trận Khánh Dương.
Trước hết Ngụy tôi xin nói qua về hợp đồng binh chủng hay đúng hơn là Nhị Thức Bộ Binh và Thiết Giáp. Đây là một sự kết hợp tuyệt vời hổ tương lẫn nhau. Bộ Binh cần hỏa lực mạnh của Thiết Giáp và Thiết Giáp cần Bộ Binh để thanh toán, lục soát cũng như bảo vệ Thiết Giáp. Trong sự hợp đồng ai cấp bậc cao hơn người đó chỉ huy. Nếu đồng cấp bậc thì tùy theo tình hình và đặc tính chiến trường mà Bộ Binh hoặc Thiết Giáp chỉ huy. Tại sao có sự phối hợp đó? BB không thể đem theo những khẩu súng cộng đồng nặng nề đến chiến trường được. Thiết Giáp với hỏa lực hùng hậu và tính di động nhanh đã bổ khuyết cái thiếu sót của BB. BB rất cần sự yểm trợ của Thiết Giáp về hỏa lực và tính di động. Nhiều khi Thiết Giáp đã trở thành lực lượng xung kích bằng tính di động nhanh mang BB trên lưng và xung phong vào mục tiêu cùng BB thanh toán chiến trường cùng lúc.
Trở lại chuyện bắn cháy 4 M113. Ai có thẩm quyền bắn cháy? Và khi nào thì bắn cháy? Cở cấp đại úy như tác giả hay tiểu đoàn trưởng hoặc lữ đoàn trưởng chưa đủ thẩm quyền để ra lệnh bắn. Tư lệnh quân đoàn mới đủ thẩm quyền ra lệnh bắn cháy. Nhưng không ai ra cái lệnh ngu ngốc đó. Tại sao? Bởi vì theo tác giả thì có một chi đoàn M113 tham chiến có nghĩa là tăng phái cho Lữ Đoàn 3 ND. Như vậy thì Trung Tá Lê Văn Phát là cấp chỉ huy, là người trực tiếp ra lệnh cho Chi Đoàn Thiết Kỵ (TK) M113. Một chi đoàn TK có 3 chi đội TK và 1 chi đội yểm trợ trang bị súng cối 81 ly ngoài những khẩu đại liên thiết kế phía trên. Mỗi chi đội TK có 4 M113 Khinh Kỵ và 1 trang bị SKZ 106 ly. Như vậy 4 M113 là một chi đội. Trên nguyên tắc chi đội trưởng không nhận lệnh trực tiếp từ Nhảy Dù mà nhận lệnh trực tiếp từ Chi đoàn trưởng Thiết Giáp. Đại úy Võ trung Tín phải am tường hệ thống hàng ngang và hàng dọc. Tại sao chỉ có 4 M113 tại tuyến phòng thủ. Còn lại những Chi đội khác và Chi đoàn trưởng ở đâu? Có thể lữ đoàn trưởng ND đã cắt nhỏ Chi đoàn ra. Như thế rất là ngu xuẩn vì Thiết Giáp chỉ hoạt động hữu hiệu khi còn nguyên toàn khối. Cắt nhỏ ra, Thiết Giáp dễ bị tiêu diệt và hỏa lực không còn hùng hậu. Khổ nổi mấy ông BB thường lo cho đơn vị của họ mà không cần biết đến các đơn vị tăng phái. Bài học đó các tướng lãnh BB học hoài không thuộc. Tướng & SQ BB không đủ khả năng chỉ huy Thiết Giáp nhưng các SQ hoặc tướng lãnh Thiết Giáp thì chỉ huy BB rất dễ dàng. Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá Tư lệnh SĐ23, SĐ25 BB. Tướng Nguyễn Văn Toàn TL SĐ2, 1BB. Tướng Hoàng Xuân Lãm TL SĐ2BB, Tướng Nguyễn Duy Hinh TL SĐ3BB, Tướng Vỉnh Lộc TL SĐ9BB, Chuẩn Tướng Lê Đức Đạt TL SĐ22BB…. Trong cuộc rút quân trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Tướng Phạm Duy Tất gốc Lực Lượng Đặc Biệt đã cắt nhỏ Lữ Đoàn II KB ra tăng phái cho từng đơn vị nhỏ BB và Thiết Giáp đã được mấy ông BB đưa vào trong Phú Bổn cận kề BB và Tư Lệnh LĐIIKB không có lấy một chiến xa trong tay. Đến khi VC pháo kích Phú Bổn vào ban đêm, Tướng Tất lên máy bay dzọt thì Đại Tá Nguyễn Văn Đồng Tư Lệnh LĐIIKB quyết định lấy lại quyền chỉ huy thì đã quá trễ. Thiết Giáp phải được bố trí nơi trống trải và được BB bảo vệ ban đêm. Nhưng lối điều động của BB đưa Thiết Giáp vào trong Phú Bổn nên khi bị pháo kích thì Thiết Giáp không thể bung ra. Khi Đại Tá Đồng điều động Thiết Giáp thoát ra thì dân chúng đã bu đầy chung quanh nếu bung ra thì cán và giết dân nên Đại Tá Đồng đành thúc thủ. Lữ Đoàn II KB tan hàng tại Phú Bổn vì sự bất tài của tướng chỉ huy BB. Đại Tá Đồng đã bị bắt tại Cũng Sơn. Nếu như Đại Tá Đồng không ngần ngại cán lên dân thì Lữ Đoàn II KB đã có thể thoát ra và tự tìm đường thoát hiểm. Nhưng nhiệm vụ của QLVNCH là bảo vệ dân nên Ông đã trở thành một tù binh trong uất nghẹn. Tướng Tất, Đại Tá Lý Tham mưu trưởng QĐ và Tướng Phạm Văn Phú Tư lệnh QD phải chịu trách nhiệm làm tan nát Lữ Đoàn II Kỵ Binh.
Như vậy chúng ta đã hiểu là Trung Tá Phát lữ đoàn trưởng LĐ3ND đã cắt chi đoàn Thiết Giáp ra làm nhiều mảnh. Khi phòng thủ thì Thiết Giáp phải đặt BB tiền đồn, gài mìn bẩy để tự bảo vệ cho nên đang đêm di chuyển là chuyện không một KB nào muốn. Phải gở mìn bẩy thu hồi tiền đồn. Đêm tối không thấy, dễ làm mồi cho súng chống tăng. Địch thấy ta mà ta không thấy địch. Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm cho nên không ai muốn di chuyển vào ban đêm. Nếu thật sự 4 M113 tự ý bỏ tuyến thì phải liên lạc ngay để biết nguyên do. Đại Úy Tín khi thấy M113 bỏ vị trí phải báo cáo lên tiểu đoàn ND. Tiểu Đoàn ND sẽ gọi cho Chi đoàn Thiết Giáp hỏi lý do. Hoặc liên lạc với Lữ đoàn Nhảy Dù hỏi lý do tại sao rời vị trí . Sau khi hỏi lý do nếu được lệnh rút thì thôi còn nếu chi đội M113 tự động rút thì phải báo cho Chi đoàn trưởng để điều động Chi đội trở lại vị trí. Nếu không chịu trở lại vị trí đã được chỉ định thì Chi đội trưởng sẽ ra tòa án Quân Sự Mặt Trận. Thế thôi. Chuyện liên lạc trong các cánh quân chỉ mất vài phút. Trên phương diện kỹ thuật tác chiến, Thiết Giáp dùng để tấn công không phải để phòng thủ. Khi phòng thủ ban đêm Thiết Giáp cần có Bộ Binh bảo vệ. Tùy theo tình hình chiến trường mà Thiết Giáp có thể nằm tại chỗ hoặc lui về phía sau cho an toàn. Thí dụ trong tầm B41 (400 mét) mà bị bắn và không tấn công được thì Thiết Giáp bắt buộc phải lui ra khỏi tầm bắn của B40, B41 mà không cần phải báo cáo hoặc chờ lệnh. Nếu Đại Úy Tín đã bắn cháy 4 M113 mà không liên lạc tìm hiểu lý do thì Đại Úy Tín đã ra tòa án Quân Sự Mặt Trận rồi. Chiến cụ quân trang quân dụng nhất là những chiến xa, M113 là những chiến cụ rất đắt tiền. Trong hoàn cảnh thiếu hụt quân số (1 chống 6) thì hành động bắn cháy 4 M113 là một hành động ngu xuẩn không thể nào tha thứ được. Mỗi xa đội là 7 người. 4 xa đội là 28 người chưa kể các thương binh mà TG đang chở vì chưa tải thương được. Người ra lệnh rút lui là Chi đội trưởng. Những KB khác như tài xế , xạ thủ chỉ là người thi hành lệnh cho nên đó là cái chết vô cùng oan ức. Đại Úy Võ Trung Tín trả lời sao trước nổi khổ mất con mất chồng mất cha do sự ngu xuẩn của chính mình. Quý Ông Đại Úy Tín, Trung Tá Bùi Quyền và Trung Tá Lê Văn Phát đã thoát khỏi ra tòa án Quân Sự Mặt Trận vì có thể trận chiến đã tàn và Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù đã tan hàng, nhưng Quý Ông mãi mãi đối diện với tòa án lương tâm vì đã ra tay tàn sát đồng đội của mình vì niềm kiêu hãnh hư vô. Quý Ông đã bắn lén từ phía sau và bất ngờ. Nếu đối mặt bao nhiêu chiến sĩ ND sẽ bị giết chết bằng đạn chống biển người với 8000 mũi tên?
Đã là tuyến thép tại sao khi Thiếu Tá Võ Trọng Em tiểu đoàn phó TĐ 5ND bỏ tuyến dẫn 200 quân Nhảy Dù băng rừng đào thoát. Đại Úy Tín trả lời sao về kỹ luật thép của binh chủng Nhảy Dù? Điều oái oăm là sau đó một thiết đoàn Thiết Giáp đã cứu những binh sĩ Nhảy Dù và mang họ về Dục Mỹ. Đại Úy Võ Trung Tín trả lời ra sao trước tình huynh đệ chi binh và tấm lòng hào hiệp của những Kỵ Binh đã cứu giúp những binh sĩ cùng màu cờ sắc áo với Đại Úy Tín ?
Ngụy tôi không tham chiến trận đó nên không thể biết có chuyện bắn cháy 4 M113 hay không? Chỉ nêu ra cái bố láo, cái phi lý, cái ngu xuẩn của tác giả nhằm đề cao chính mình và kỹ luật thép của binh chủng Nhảy Dù mà tác giả phục vụ. QLVNCH khác với quân đội Bắc Việt xâm lược. Cấp chỉ huy QLVNCH của chúng ta rất cẩn trọng khi điều quân lúc nào cũng quý trọng tánh mạng của binh sĩ, không như quân đội Bắc Việt xâm lược lúc nào cũng thí quân để đạt mục đích. Lấy cứu cánh biện minh cho hành động thí quân. Cho nên câu chuyện bắn cháy 4 M113 không là biểu tượng của kỹ luật thép mà chỉ thể hiện được sự ngu xuẩn của một cấp chỉ huy không hiểu thấu đáo hợp đồng binh chủng và đặt niềm kiêu hãnh không đúng chỗ. Đại Úy Nguyễn Xá là người đã chỉ huy 4 M113 mà Đại Úy Võ Trung Tín đã bắn cháy đang có mặt tại Hoa Kỳ. Ước mong Đại Úy Nguyễn Xá lên tiếng để làm sáng tỏ vấn đề.
Ngụy tôi hay lang thang trong net tìm đọc hầu hết những bài viết về chiến sĩ QLVNCH, về những trận chiến kinh hồn mùa hè đỏ lửa 1972 đến những trận chiến cuối cùng năm 1975. Từ chiến sử TQLC đến những trận đánh của đoàn quân Mũ Đỏ Nhảy Dù. Từ trận chiến ngoại biên Lam Sơn 719 đến trận đánh Đồi Phượng Hoàng, căn cứ Ái Tử đến cuộc tiến chiếm Cổ thành Quảnh Trị, hình ảnh của những Thiết Đoàn Kỵ Binh rất mờ nhạt kể cả những trận đánh tăng T54 của CSBV. Qua những tài liệu bài viết những chiến sĩ TQLC, Nhảy Dù đã hào hùng anh dũng diệt tăng địch bằng súng M72. Trong khi đó Thiết Đoàn 20 CX trang bị chiến xa M48A3 tối tân khắc tinh của T54 thì bố trí gần đó nằm chơi xơi nước. Vũ khí chống tăng của BB chủ yếu là M72, ngon lành nữa là súng SKZ 75 ly, chưa bao giờ Ngụy tui thấy BB sử dụng SKZ 90 ly hiện đại mà Ngụy tui đã có lần được thấy. Ngầu hơn nữa là hỏa tiển TOW. Phần đồng sử dụng M72 nhẹ, mang theo được nhiều nhưng tầm bắn giới hạn. Phải đợi cho tăng T54 tới gần mới khai hỏa. Đó là điểm yếu. Vì khi tăng T54 tới gần thì nó đã tàn phá công sự phòng thủ của ta và có thể dùng hỏa lực chống biển người bắn ồ ạt thì chiến sĩ của ta không thể ngóc đầu để lấy đường nhắm. Và khi nó đã vào tuyến phòng thủ thì coi như ta thua. Trong khi đó chiến xa M48A3 có thể tiêu diệt T54 với tầm ngoài 2 km chính xác và hữu hiệu. Thế đó, cứ cho binh sĩ diệt tăng bằng M72 và M48 CX cứ ngồi chơi xơi nước. Trong trận chiến Long Khánh Thiết Đoàn 5 KB là nỗ lực chính để giữ Long Khánh thì ít nghe nói đến. Người ta ca tụng SĐ18 BB anh dũng chặn bước tiến của đoàn quân xâm lăng Bắc Việt Trong khi đó hầu như mọi người quên mất Lữ Đoàn III KB và LLXKQĐIII đã chặn đứng Quân Đoàn 4 BV tại Dầu Giây và chính đơn vị nầy đã cứu Trung Đoàn 52BB/SĐ18BB không bị địch quân tràn ngập. Và đặc biệt là đã đánh tan một Tiểu Đoàn tăng T54 tại Long Thành. Dứt đẹp SĐ 364 CSBV tại Biên Hòa giữ vững Biên Hòa trong đêm 29 tháng 4 năm 1975. Khi tất cả lực lượng QD III tan rã kể cả SĐ 18 BB thì LLXKQĐIII vẫn còn đầy đủ đã được Tướng KB Trần Quang Khôi điều động về bảo vệ Thủ Đô sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Không một ai hay biết. Đặc biệt chỉ trong một ngày đánh tan Công Trường 5 CS, một chiến tích lừng lẫy có một không hai trong quân sử VNCH giải tỏa căn cứ Đức Huệ trong năm 1974. Sau khi mọi nỗ lực của Sư Đoàn 25BB đã thất bại trong việc giải tỏa căn cứ Đức Huệ, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần Tư lệnh Quân Đoàn III và Quân Khu III đã giao trọng trách cho Tướng Trần Quang Khôi và LLXKQĐIII mà Lữ Đoàn 3 KB với Thiết Đoàn 15KB, TĐ 18 KB và TĐ 22 Chiến Xa làm nồng cốt. Tất cả từ Tư lệnh Quân Đoàn III đến toàn bộ tham mưu của QĐ III đã bó tay, thì một tay Tướng Khôi đã đi thị sát mặt trận và chính tay Ông đã thực hiện kế hoạch hành quân và TT Thiệu đã rất thích tính táo bạo và liều lỉnh trong kế hoạch của Ông. Tướng Khôi đã mang hết LLXKQĐIII vượt biên giới Kampuchea và đánh từ phía sau Công Trường 5 CSBV. Chỉ trong một ngày CT 5 CSBV tan rã chạy tứ tán và thừa thắng xông lên Tướng Khôi đã tung quân truy kích đến tận Mộc Hóa Kiến Phong. Cố Vấn Trưởng TGB Đại Tá Raymond Batteall đã mô tả: Đó là chiến thắng oanh liệt nhất trong chiến tranh VN. Và Ông đã viết hàng chữ “Kỵ Binh Việt Nam Muôn Năm” trong mọi bài viết và thư từ. Cảm động nhất là lúc Tướng Khôi và Tướng Thuần đón Tổng Thống Thiệu tại căn cứ Đức Huệ vài ngày sau, một Chuẩn úy Biệt Động Quân đã tiến đến đưa tay chào kính với nước mắt đã cám ơn Tướng Khôi cứu mạng. Nhưng Tướng Khôi, bằng một giọng nói chân thành: “Chính Anh phải cám ơn các Em mới đúng. Sự chiến đấu vô cùng dũng cảm của các Em là một tấm gương sáng chói là niềm hãnh diện chung của Quân Lực chúng ta. Các Em mới thật sự là những anh hùng mà mọi người VN yêu chuộng Tự Do phải mang ơn các Em”. Tình huynh đệ chi binh ấm áp giữa một chuẩn úy và một chuẩn tướng. Hai cấp bậc cách nhau cả một quảng đời binh nghiệp dài thăm thẳm. Tình cảm, tinh thần trách nhiệm, tình yêu gắn bó giữa những người cùng chiến đấu chung một màu cờ không phân biệt binh chủng đã làm sáng danh một Quân Lực VNCH đã vì dân chiến đấu vì dân hy sinh. Có ai trong chúng ta đã chứng kiến một cuộc hành quân cuối cùng. Vô cùng hùng tráng đẹp tuyệt vời của LLXKQĐIII của những người con yêu của Tổ Quốc VNCH. Ba Chiến Đoàn 315 KB, 318 KB, 322 KB cùng các binh chủng khác như Lữ Đoàn 2 ND, Lữ Đoàn 468 TQLC, Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân, các đơn vị Pháo Binh Công Binh Truyền Tin QD III đã hàng ngủ chỉnh tề bằng ba trục tiến quân về bảo vệ Thủ Đô yêu dấu. Đó là đoàn quân cuối cùng của Quân Đoàn III còn nguyên vẹn vào ngày cuối cùng của miền Nam thân yêu.
Cũng với LLXKQĐ III nầy trong cuộc hành quân Toàn Thắng 42 (1/71) tấn công vào Kratié để tiêu diệt cục R Cộng Sản. Sau khi Trung Tướng Đỗ Cao Trí đền nợ nước trong một tai nạn trực thăng, Trung Tướng Nguyễn văn Minh lên thay thế đã không đi tiếp kế hoạch của Tướng Trí mà Ông muốn rút quân về nước. Sau gần một tuần nằm án binh bất động, quân CS đã phục hồi bèn bao vây chận bít đường về. Sau hai lần rút lui theo kế hoạch của Tướng Minh bất thành và trước viễn ảnh đoàn quân bị tiêu diệt, Đại Tá Khôi đã yêu cầu trao trọn binh quyền cho Ông để đem toàn bộ lực lượng QĐ III về nước. Tướng Minh không còn chọn lựa nào khác, đành trao quyền chỉ huy đoàn quân viễn chinh cho Đại Tá Khôi. Bằng tài thao lược lòng can đảm và mưu trí, nhất là được sự tin tưởng của các cấp chỉ huy Bộ Binh, Biệt Động Quân… Cả đoàn quân với ý chí sắt thép vói quyết tâm không gì lay chuyển dưới tài chỉ huy của Đại Tá Khôi đã về nước an toàn trong vinh quang. Trong cảnh dầu sôi lửa đỏ đó, Tướng Khôi không hề và chưa hề bắn bỏ những chiến hữu của mình để phô diễn cái “kỷ luật thép”… mà Đại Úy Võ Trung Tín hãnh diện khoe khoang. Lần nào cũng thế trước khi xuất quân, Tướng Khôi bao giờ cũng khích lệ tinh thần binh sĩ, huấn luyện cho binh sĩ làm quen với chiến trận và sau cùng là duyệt hàng quân với một khí thế chiến thắng. Cho nên binh sĩ lúc nào cũng nhập trận với một hào khí ngất trời.
Trong chiến trận Lam Sơn 719, tại căn cứ Bravo Chi Đoàn Chiến Xa 1/8 CX đã cùng đơn vị Nhảy dù phối hợp hành quân. Và chính Chi Đoàn Chiến Xa 1/8 đã giữ an ninh cho đoàn quân Nhảy dù triệt thoái. Còn lại một mình đơn thân độc mã giữa chiến trường tan hoang, mùi tử khí ngập trời. Một mình một ngựa tại căn cứ Bravo đã vẫn bình chân như vại. Không hề run sợ để phải bỏ chạy trong hoảng loạn. Thiếu Tá Chi Đoàn Trưởng Lê Quang Vinh đã bình tĩnh điều động Chi đoàn rút lui trong trật tự về Lao Bảo. Chi đoàn đã làm nên chiến tích phi thường tiêu diệt toàn bộ 3 tiểu đoàn quân CS đang phục kích tại cầu sắt và tiếp tục bảo vệ Bộ Binh trên đường rút quân về Khe Sanh. Và cũng chính Chi đoàn nầy đã làm nên chiến thắng phi thường tại Kontum mùa hè đỏ lửa 1972, và đã tung hoành nhổ chốt trên đỉnh núi Chu Pao. Khi đoàn quân mũ đỏ rút khỏi vị trí đóng quân đã được chỉ định, Thiếu Tá Lê Quang Vinh đã không tặng cho Nhảy Dù một quả đạn chống biển người mà còn án ngữ bảo vệ cho đoàn quân ND rút lui. Trong chiến trận Lam sơn 719, Đại Tá Lê Quang Lưỡng tư lệnh Lữ Đoàn1 Nhảy Dù đã lên máy bay bỏ đoàn quân Nhảy Dù lại cho Đại Tá Kỵ Binh Nguyễn Trọng Luật Tư lệnh Lữ Đoàn I KB mang dùm về nước. Và Trung Tá Thạch Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2 Nhảy Dù đã lên trực thăng dzọt về Khe Sanh, bỏ binh sĩ lại cho Tiểu đoàn phó điều động rút lui tại Căn Cứ Hỏa Lực 30 (đọc Tử Thủ Căn Cứ Hỏa Lực 30 của Đại Úy Pháo Binh Trương Duy Hy), Đại Úy Võ Trung Tín ở đâu lúc đó không bắn cháy trực thăng để phô diễn kỷ luật thép của đoàn quân mũ đỏ?
Binh chủng Thiết Giáp đã ghi nên những chiến công huy hoàng từ thời Quân Đội Quốc Gia VN được thành lập. Đã tô thắm ngọn cờ Vàng thân yêu, đã có mặt trên khắp 4 vùng chiến thuật, nơi đâu cũng có vết xích của những Kỵ Binh lịch sự nhưng anh dũng hào hùng. Nhưng Ngụy tôi không hãnh diện về điều này, bởi đó là trách nhiệm của tất cả quân nhân không phân biệt binh chủng đã làm nên chiến sử oai hùng của QLVNCH. Điều mà Ngụy tôi hãnh diện là tất cả các cấp chỉ huy từ Chi đội trưởng, Chi đoàn trưởng, Thiết đoàn trưởng cho đến Tư lệnh Lữ đoàn Kỵ Binh đều còn tại hàng chiến đấu cho đến giờ phút cuối cùng. Không một ai đào thoát trong giờ tuyệt vọng đó. Anh em chúng tôi từ Tư lệnh Lữ đoàn đến người Chi đội phó đã gặp nhau trong tù người năm ba năm cho đến 17 năm ròng rã. Chúng tôi không có thói quen chạy làng bởi vì một trong 7 truyền thống của người Kỵ Binh lịch sự là không lùi bước trước quân thù. Bây giờ chúng tôi lại đoàn tụ tại hải ngoại, vẫn sinh hoạt đùm bọc và thương yêu nhau như những ngày còn khói lửa chiến chinh. Cho nên nếu có kiếp sau, có chiến trận sau, thì Ngụy tôi cũng xin được đội chiếc mũ đen kiêu hùng và được cởi ngựa sắt dong ruỗi khắp bốn vùng chiến thuật.
Khi đọc bài viết của Đại Úy Nhảy Dù Võ Trung Tín viết về chuyện bắn cháy 4 M113 vì tự ý rời bỏ vị trí phản ứng cấp thời của tôi là phẫn uất, giận dữ; nhưng khi bình tâm thì sá gì những lời kiêu hãnh vu vơ đó, khi mà nợ núi sông chưa trả hết, và nhiệm vụ Bảo Quốc An Dân vẫn chưa vẹn tròn….
Bài viết quá hay và quá hợp lý.
ReplyDelete