Saturday, April 16, 2016

Đoản văn tháng Tư

Tháng Tư. 75. Bữa tiệc của bầy kên kên

Vẫn chưa tin là mình mất nước.
 26.tháng 4.75.    

Rời khỏi  căn nhà nhỏ ở ngã tư Hàng Xanh,chạy xe trong thành phố giữa bầu không khí ngột ngạt, thê lương mang dáng dấp tử thần và hơi thuốc súng. Sài gòn , những ngày gần cuối tháng tư, bầu trời xám xịt u ám với từng lớp mây hình thù quái dị  chực nuốt chửng những phận đời dân tôi khốn khổ, như báo hiệu cửa địa ngục sắp mở,và chúng tôi chờ được gọi tên.
Mắt tôi cộm cay như vừa va vập vào bức tường đầy cát đá.
Mặt đường như rạn nứt dưới vòng bánh xe .

Quốc lộ một, đạn pháo liên hồi  từ Củ Chi đếnTrảng Bàng,
Những người chạy từ Tây Ninh, Gò Dầu Hạ về thành phố cho biết, miệt đó cũng đang bị pháo kích dữ dội. Hai bên đường đôi chỗ sườn nhà cháy nham nhởchỗ trơ cột gỗ còn ngún khói. Lửa, khói  nghi ngút trên những cánh rừng thưa.  Xe đò vẫn chạy,vẫn  rước khách. Người ta bám càng, bám hông, chen chúc trên mui xe. Họ tìm đường sống trong hoang mang,tuyệt vọng
Hai bên đường, đạn vẫn tiếp tục bắn phá.
Gió xé da, xát muối. Nắng quái tháng Tư quật rát mặt, ép dính hai bên tóc bê bết những giọt mồ hôi lẫn nước mắt.Đôi khi, có những trái đạn nổ quá gần đường nhựa. Hơi ép làm tôi lồng ngực của tôi ran rát nóng. Phải há to miệng lấy hơi tôi mới thở được.
Tôi nghĩ là mình sẽ chết.
Mình sẽ chết ra sao ? Thịt da tung tóe. Có kịp để biết cảm giác đau đớn ? Nhưng, xin Thượng đế hãy cho tôi được gặp anh, cho tôi được nhìn tận mắt, ít ra, anh còn sống sau trận chiến tàn khốc, dù rằng, chúng tôi là những kẻ thua trận.
Không hiểu, xui khiến làm sao, tôi cũng đến được vùng anh đang đóng quân.

Lộc Giang. Nơi hậu trạm.
Người lính gọi máy. Nửa tiếng sau, một viên trung úy trẻ của đại đội chỉ huy chở tôi tới chỗ của anh. Người lính nói “ Đêm qua cha con ông ấy phải  đào hố nằm lại, tụi nó pháo dữ quá. Tại chị lỡ lên đây rồi nên Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng mới cho chị vô đó. Mà chị lên làm chi ở chỗ đánh nhau nguy hiểm như vầy . Đó, chị nghe chưa, tụi nó đang rót pháo liên hồi kìa. Chị biết mà. Súng đạn đâu né mình.”
Đơn vị anh đang chuẩn bị đợt tấn công mới để tái chiếm lại xã Lộc Giang. Khắp nơi đạn  pháo nổ kinh hoàng. Khói bụi mù mịt. Mấy người lính nói pháo binh 155 đặt tại sân banh bị pháo trúng nên giờ đơn vị của anh chỉ tham chiến bằng hỏa lực cơ hữu. Pháo từ phía rừng Bời Lời, từ Đức Huệ bắn qua liên hồi. Vừa thấy tôi, anh vội kéo tôi nhảy xuống hố cá nhân. Người lính mang máy truyền tin gửi về phía tôi mắt nhìn lo âu lẫn mệt mỏi.
Cõi lòng tôi bây giờ cũng trĩu nặng hoang mang, cả sợ hãi. Tôi nói với anh:
”Sắp mất nước rồi, anh à. Sài Gòn người ta đi nhiều lắm. Anh về đi, anh”
Anh nhìn tôi. Và nhìn v phía nhng trung đi ca anh đang b trí xung quanh . 
Đôi mắt của anh, lúc ấy, vừa cương quyết vừa dữ dội.
Ánh mt  chp nhn cái chết. Chp nhn hy dit.
Con đường bước lui không xa lắm. Chỉ băng qua giao thông hào, nối tiếp một con đường đất nhỏ là đầu xóm nhà dân. Xe của tôi đang gửi ở đó. anh có thể cùng tôi, quay lại.
Ở phía sau là gia đình của anh. Vợ và hai con.
Là con đường ra biển.
Anh chọn con đường phía trước.
26 tháng Tư năm 75.
Đó là giây phút cuối cùng chúng tôi được ngồi cạnh bên, nắm tay nhau, ráng níu cùng nhau, hơi thở thoi thóp của Tự Do.
Và anh. Trả giá cho sự lựa chọn đó bằng bảy năm tù và bằng cái chết của con trai chúng tôi.
Anh và đồng đội đã chiến đấu đến giờ phút cuối cùng của ngày 30 tháng 4. Họ chiến đấu trong tuyệt vọng, bởi họ biết, từng phần của miền Nam đã rơi vào tay Cộng sản từ nhiều ngày trước. 
Đôi khi tôi tự hỏi. Mình có thật sự hãnh diện với điều đó hay không .Cái giá phải trả quá đắt .Vì, cuối cùng chúng tôi cũng vẫn là những kẻ vô Tổ Quốc.
Năm tháng, vết thương tuy đã thành sẹo nhưng nỗi đau vẫn âm ỉ, nhức nhối. Nó gom đủ mọi trạng thái: Hào hùng. Bi tráng. Đau đớn. Hãnh diện.Căm thù
Và chúng tôi, luôn mang trong lòng một trái tim đau, một nỗi tủi nhục và mãi mãi, sống cùng nó trong suốt phần đời còn lại của mình.


Tù binh.

Từ tháng 4. 75.. cho đến tn bây gi (dù chúng tôi đã quá già theo thi gian) mi năm, như mt vết thương tự động nhc nhi theo mùa, như mnh đn đâu đó nm trong lng ngc. Tháng tư,  Nó cựa mình, thng thiết gi tên, gi lên ni mt mát mà mi thi khc đến đi, ni căm giận, nỗi tủi nhục trong chúng tôi đm đc hơn, đau đn hơn.
Tựa như bìa giấy cũ lâu ngày thấm sũng nỗi buồn.
Tôi thật không nhớ rõ, cảm giác của ngày hôm ấy. Nhưng thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn mơ thấy mình điên cuồng chạy xô giạt gió. Tôi hoang mang. Tôi sợ hãi, và khung cảnh xung quanh y hệt như ngày nào, tôi chạy xe từ Sài Gòn về Trảng Bàng tìm anh.
Vòng bánh xe hối hả ngấu nghiến theo đầu óc lơ mơ, tôi thật sự không biết tìm anh ở đâu. Hai bên đường mù mịt khói đạn pháo kích.Rừng thưa ngún cháy bắn những tia lửa sẫm mầu tang tóc.
Nhà cháy đen trơ nền gạch, trơ hàng cột đen xì như thân người chết cháy.
Hai bên đường, người người gồng gánh con thơ,túi bị, thùng xiểng. Người chạy lên. Kẻ chạy xuống. Họ không biết chạy đi đâu. Tiếng la hét hỗn loạn. Họ chạy qua những xác người co quắp, có xác được đắp chiếu thò nguyên ống chân, có xác vùi mặt ôm đám tranh khô. Người chết có nơi về. Người sống tìm chốn để nương náu. Dù sống hay chết, phận người cũng rẻ mạt như loài cỏ dại.
Chiến tranh. Chết chóc có mặt khắp mọi nơi.
Tôi tìm anh trong vùng lửa đạn, đầm đìa thịt xương.
Đoạn đường không ranh giới giữa sống- chết, tôi thật sự không hề nghĩ rằng, nếu tôi chết tan xác bởi đạn pháo kích, hoặc bởi phát súng của kẻ thù, nếu tôi, chết tình cờ , bờ đê, bụi cỏ, lề đường..Các con của tôi sẽ ra sao? Ai sẽ nuôi chúng? Hoặc nếu anh còn sống sót, làm sao anh có thể tìm được tôi trong đám xác người ngập ngụa không hình thù kia ?
Các con tôi. Buổi sáng lúc rời nhà, tôi không nhớ ôm lấy chúng, hôn lên gò má mịn màng của hai chị em nó. Sao lúc nầy tôi lại nhớ tê tái mùi da thịt ngọt thơm của hai đứa nhỏ.
Ở nhà, không ai biết tôi đi đâu.
Tôi thật sự, lúc đó, chỉ khao khát được nhìn thấy anh. Chỉ thôi thúc ý nghĩ mãnh liệt phải đi tìm anh. Phải tìm anh.Thấy tận mặt như hơi thở chạm vào hơi thở.
Tình yêu của tuổi trẻ thời chiến tranh thật bi thương, đau đớn.
Tình yêu đứng ngoài cái chết. Đứng trên nỗi sợ hãi.
Đại đội của anh là đơn vị chiến đấu đến giờ phút cuối cùng vào lúc 5 giờ chiều ngày 30 tháng 4 năm 1975 tại chiến trường Đức Huệ, Trảng Bàng.
Họ chiến đấu dũng cảm trong tuyệt vọng.
Tôi lúc đó, điên cuồng cầu xin Chúa, xin Phật, xin bất cứ đấng thần linh nào đang đứng đâu đó, mọi nơi, mọi lúc, che chở cho anh còn sống để gặp tôi.
Tôi sợ anh tự sát.
Trời ơi. Nếu điều đó xảy ra.. Em và con sẽ sống ra sao đây. Anh ơi.
Sẽ cùng chết theo anh? Nhưng chết mỗi người một nơi, làm sao chúng ta có thể tìm thấy nhau.
Nhưng mất nước rồi. Chúng ta còn sống nào có ích gì ?
Giải  pháp tìm cái chết đến thật bất ngờ làm lòng tôi nhẹ tênh. Nó như một cái phao cho tôi bám níu để lựa chọn, để giải thoát. Dù thật sự, tôi không biết tìm đến cái chết như thế nào.
Cuối cùng ai lại chẳng chết.
Khác chăng, chỉ sớm hay muộn mà thôi.
Tôi gặp anh. Đó là ngày 1 tháng 5 năm 1975 lúc gần 11 giờ trưa
Chúng tôi đứng nhìn nhau qua hàng rào kẽm gai. Trời nung nắng như bể lửa. Mồ hôi và nước mắt nhòe nhoẹt trên gò má tôi, tóc bết từng mảng vào da mặn đắng. Nhiều người cũng như tôi, họ tìm chồng, tìm con, tìm anh em..Có người níu hàng rào khóc vì vui mừng khi thân nhân còn sống, có người ngồi bệt xuống đường nuốt ngược lệ vào trong.
Anh của tôi. Áo lính đã bị lột bỏ.
Nhục nhã, thống khổ đậu hằn  trên viền gân máu mắt của  anh, của từng chiến hữu. Những  người tù binh vừa hạ vũ khí ngày hôm qua. Lúc ấy, chắc chắn, họ không hề nghĩ đến bản án tù như tấm lưới khổng lồ đang lơ lửng trên đầu sắp vồ chụp lấy họ. Họ. Nhục nhã, tủi hổ  vì không giữ được Tổ Quốc.
Tôi nhớ, mới cách đây mấy ngày, khi tôi tìm anh ở Lộc Giang, đôi mắt anh lúc ấy, nhìn về phía trước, vừa cương quyết vừa dữ dội.
Ánh mắt bây giờ, cùng cực nỗi thống thiết, bi phẫn.
Mắt hổ mất rừng.
Mắt thú dữ mắc bẫy.
Ngăn cách giữa hàng rào kẽm gai, làm sao tôi có thể nói với anh, triệu nghìn lời muốn nói.
Làm sao có thể khóc òa theo trái tim vỡ máu. " Mất nước rồi . Anh ơi."
Mất nước thật rồi...
Còn lời than khóc nào đau đớn hơn ?


Ngày 1 tháng 5 .1975.

Chạy

 
Sáng sớm.  Chị chạy theo anh. Đôi dép nhựa, áo cánh nâu, quần ú đen, một túi thức ăn. Chị tất tả bươn dọc con kinh. Chị không biết mình chạy theo anh để làm gì. Nhìn thấy anh lần cuối. Còn được nhìn thấy nhau khi anh còn sống ?  
Ngay lúc nầy, chị mới thấm thía cảm giác khao khát được nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt mãnh liệt đến chừng nào.
Ai đó gào với sau lưng. Chạy đi đâu. Biết tìm đâu. Tìm đâu. Hai chữ đó không ngừng đập liên hồi dồn dập trong tai chị . Nó đau đớn . Nó cay xé lòng.  Họ sẽ đưa chồng tôi đi đâu. Họ sẽ bắn giết đoàn tù trên bờ kinh, trong rừng rậm kia như xoá sổ một con vật không còn khả năng tự vệ. Họ sẽ vùi lấp xác anh đâu đó , trong nhúm lá rừng khô hay sẽ thả trôi sông theo con nước vật vờ mà bàn chân chị vừa dẫm qua, máu thấm từ bàn chân trầy xước đổ xuôi theo giòng nước đục ngầu.
Chị chạy. Nhắm thẳng hướng rừng. Trong mớ ý nghĩ hỗn độn chắp vá không gian nọ sang thời gian kia, chị nhớ như in, chiều qua, anh đứng sau hàng rào kẽm gai, quân phục bị tước bỏ . Mắt anh đỏ ngầu như gân máu bể. Tay chị bấu chặt hàng rào kẽm gai. Anh khóc. Chị khóc. “Mất nước rồi , anh ơi" Thân chị đổ gục xuống .Nước mắt tuôn lai láng như hồ nước vỡ.
Anh đứng bất động .Đầu cúi gầm . Đôi vai rủ xuống.
Anh. Người tù binh cuối cùng của ngày 1 tháng 5.
Chị chạy cặp theo rừng chồi , qua tiếp những bờ kinh sạt lở . Dép đứt quai, chị vừa chạy vừa cà nhắc . Chị lê lết níu người qua đường . Cô ơi. Chú ơi. Đoàn tù đi hướng nào. Cô chú ơi, làm ơn chỉ dùm con....Tiếng hỏi, tiếng nói lùng bùng rơi rớt phía sau .Nước mắt đầm đìa lạnh từng chân tóc. Đôi lúc chị ôm ngực ho sặc sụa, cơn đau thắt từng cơn khiến lồng ngực như bị xé toang tan tác.
Chị nghĩ mình sắp chết . Em có kịp gặp anh không . Anh ơi.
Xế trưa, chị cũng đến được bờ sông Vàm cỏ Đông.
Đầu gối khuỵ xuống. Chị gào tên anh.
Nắng xé trời.
Đoàn tù lố nhố trên một cái phà chạy máy đuôi tôm. Phà qua sông.
Họ đi, những hình nhân tả tơi chân nọ xiềng xích chân kia . Tiếng khua lẻng xẻng đập vào tai chị những mớ âm thanh vừa ghê rợn vừa thê lương. Họ, từng người một  đang đi dần vào đia ngục trần gian.
Nơi đó.Bầy kên kên đang chờ rỉa xác.
Chị cào cấu đám cỏ xước trên bờ kinh. 
Chị hươ tay trong không khí . Chị hối hả bốc nắm đất ném mạnh xuống sông.
Từ bờ kinh, chị lăn lông lốc xuống triền sông.
Rồi, thình lình chị bật dậy, cắm cổ chạy dọc theo bờ cát sụp lỡ.
Chị khàn hơi gọi tên anh. Cổ họng cay xé, tiếng kêu đau đớn như con thú bị thương, vùng vẫy chờ nhát dao ân huệ.
Đoàn tù vẫn nhấp nhô, thấp thoáng bên kia sông.
Chị hy vọng anh sẽ nghe tiếng gọi. Anh sẽ biết , đến lúc cuối cùng chị vẫn khao khát được ở cạnh anh, được trông thấy anh .Dù có chết, Anh sẽ không còn cảm thấy đơn độc, vì cuối cùng , chị vẫn rất gần anh, vẫn cùng anh thở chung một bầu trời, chung một khoảng khắc vĩnh cửu.
Bên nầy sông, chị vẫn hối hả chạy tiếp.
Chạy. Chạy. Và chạy.
Đột nhiên, chân chị sững lại. Rừng. Rừng nối tiếp rừng. Gai nhọn xù tua tủa. Rừng rậm rịt âm u. Rừng gầm gừ đe dọa.
Đoàn tù đã biến mất.
Chị khóc như chưa bao giờ được khóc. Tiếng khóc rền rĩ như máu dốc ngược trào qua lồng ngực kèm cơn ho gập người sặc sụa. Thân người chị đổ ập, mặt mũi bê bết đất cát lẫn máu và nước mắt.
Chị đã mất anh rồi. Em mất anh rồi. Không có anh, em và con phải sống làm sao đây. Anh ơi.
Nắng dồn cục. Đổ lửa. Mặt trời đặc quánh, đỏ bầm như mầu máu.

Ngày đó 2 tháng 5.
Đi
Tôi và những người bạn sĩ quan bị bắt vào giờ thứ 25, đêm 30-4 tập trung tại một trường học. Trưa ngày 1 tháng 5 được ra gặp em. Em mắt khóc tiều tuỵ, đứng cách nhau hàng rào kẽm gai. Mất nước rồi anh ơi. Câu nói lập đi lập lại của em ngập với chan hoà nước mắt được đứng với nhau 15 phút ngắn ngủi, chẳng nói được với nhau thêm điều gì. Cuối tháng chưa có lương, chỉ có đúng mười ngàn đưa cho em vì biết chắc rằng sẽ chẳng có gì để mua bằng tiền của miền Nam Việt Nam được nữa.
Sáng 2 tháng 5 . Bị dẫn đi về hướng bờ sông Vàm Cỏ Đông. Không biết sẽ đi đâu, chúng dẫn đi dọc theo thị xã, vẫn có người dân chạy theo dấm dúi cho chúng tôi chiếc áo, đôi dép, mặc cho đám vệ binh hầm hừ quát tháo. Nhớ hoài cô bé mặc chiếc áo sơ mi còn huy hiệu của trường trung học, chạy theo đưa cho tôi chiếc bánh tét và đôi dép, nước mắt đầm đìa: Anh ơi, mất nước rồi. Y hệt như câu em của tôi hay nói.
Cuối cùng sau hơn nửa tháng đi bộ, băng qua những xóm làng giáp biên giới bị Việt Cộng chiếm từ 72. Những đứa trẻ ốm gầy khẳng khiu, quần áo tả tơi nhưng vẫn chạy theo đám tù binh ném đá và chửi: Tù binh ngoan cố. Chúng tôi tới một trại tù nằm bên kia biên giới Miên, giáp Phước Long. Trại tù đầu tiên của nhiều lần chuyển trại tù sau đó. Trại Nước ngập. Cái tên nghe nhiều khủng bố đe doạ. Bước vào trại, kinh hoàng thêm khi nhìn thấy những thân hình gầy guộc,với những khuôn mặt xanh xao như ma đói, không còn chút sinh khí nằm trên chõng tre, sâu dưới tàn lá của cây rừng rậm rạp, mà tia nắng mặt trời không qua lọt. Nơi đây đã giam giữ những người tù binh trong chiến tranh.
Tôi và em. Đến khi gặp lại nhau lần đầu tiên khi được thăm của tháng 8 năm 1977. Mới biết rằng trong buổi sáng ngày tháng 5 tang thương đó. Em đã chạy theo tôi băng đồng, qua suối, qua những trảng ruộng khô nắng bốc khói của ngày tháng 5 để mong được nhìn thấy chồng lần cuối. Vì biết đâu sẽ không bao giờ thấy nhau lần nữa.
Thương em như câu hát: ơn em thơ dại từ trời, thơ dại từ trời, từ trời theo ta, theo ta từ trời. Xuống biển lượm đời, lượm đời ta lên ...
Và phần thứ hai, xin các bạn đọc những cảm xúc, ý nghĩ của em tôi ngày ấy. Trong binh biến tao loạn mà chạy từ Sài Gòn xuống kiếm chồng bất kể chết. Và tôi chắc chắn. Trong thời gian đó. Cũng có trăm ngàn người vợ lính cơm nắm cơm gói, không quản thân mình cam go cùng khổ để kiếm cho ra người chồng lính của mình dù rằng chỉ còn là một thân xác rữa nát.
( HV)

No comments:

Post a Comment